Thứ Hai, tháng 11 28, 2005

Những đại dịch trong lịch sử nhân loại



Đại dịch, hay dịch toàn cầu, là sự bùng phát của một bệnh nhiễm trùng xảy ra ở người hoặc động vật trên một vùng địa lý rộng lớn.

Một chứng bệnh nào đó không phải là đại dịch chỉ vì nó giết chết nhiều người. Ví dụ, bệnh ung thư khiến nhiều người chết. Nhưng tử vong và tàn phế do ung thư không được xem là đại dịch, vì đó không phải là bệnh nhiễm trùng (mặc dù một số tác nhân nhiễm trùng làm tăng nguy cơ ung thư).

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, một đại dịch có thể bắt đầu khi thỏa mãn 3 điều kiện sau:
1) Xuất hiện một tác nhân gây bệnh mới đối với quần thể.
2) Tác nhân gây bệnh nhiễm sang người, gây bệnh nặng.
3) Tác nhân gây bệnh dễ dàng lây lan và có thể chứng minh được ở người.

Những vụ đại dịch trong lịch sử:

Đã có nhiều dịch lớn xảy ra trong lịch sử nhân loại, nói chung tất cả đều là bệnh ở động vật và xảy ra cùng với quá trình thuần hóa vật nuôi – như bệnh cúm và lao. Đã có những vụ dịch đặc biệt có ý nghĩa đáng được nhắc đến nhiều hơn là sự phá hủy "đơn thuần" các thành phố

* Cuộc chiến Peloponnesian, năm 430 tr.CN. Trong 4 năm, một tác nhân bí ẩn đã giết chết một phần tư quân đội và dân cư Athen. Căn bệnh chết người này làm suy yếu thế thống trị của Athen, nhưng chính độc lực của bệnh đã ngăn không cho nó lan rộng hơn; nghĩa là nó giết chết người bệnh nhanh đến mức bệnh nhân không kịp lây bệnh sang người khác.

* Bệnh dịch Antonine, năm 165-180. Có lẽ bệnh đậu mùa đã quay lại vùng Cận Đông; giết chết một phần tư số người nhiễm và tổng số có tới 5 triệu nạn nhân. Trong thời kì cao điểm của vụ dịch thứ hai (năm 251 – 266), người ta kể rằng chỉ trong một ngày đã có 5000 người chết ở Rome.

* Bệnh dịch Justinian, bắt đầu năm 541. Đây là vụ dịch hạch đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử. Nó bắt đầu ở Ai Cập và lan tới Constantinople vào mùa xuân sau đó. Theo ghi chép của một sử gia Byzantine là Procopius, vào lúc cao điểm có tới 10000 người chết chỉ trong một ngày và dịch bệnh đã giết chết 40 phần trăm cư dân của thành phố. Dịch bệnh đã cướp đi một phần tư dân số miền đông Địa Trung Hải.

* Cái chết Đen, bắt đầu vào những năm 1300. Tám trăm năm sau vụ dịch cuối cùng, dịch hạch quay trở lại châu Âu. Bắt đầu ở châu Á, bệnh lan tới vùng Địa Trung Hải và Tây Âu vào năm 1348 (có lẽ từ các nhà buôn Italia chạy trốn khỏi cuộc chiến ở Crimea), và đã giết chết 20 triệu người châu Âu trong 6 năm, một phần tư dân số và ở những vùng bị ảnh hưởng nặng nề nhất có tới một nửa số người dân bị chết do dịch bệnh.

* Dịch tả
- Vụ dịch đầu tiên năm 1816-1826. Trước đó chỉ hạn chế ở vùng tiểu lục địa Ấn Độ, dịch bắt đầu ở Bengal, và đến năm 1820 thì đã lan ra toàn Ấn Độ. Dịch bệnh còn lan sang cả Trung Quốc và Biển Caspian trước khi lui dần.
- Vụ dịch thứ hai (1829-1851) lan tới châu Âu, London năm 1832, Ontario Canada và New York cũng trong năm đó, và đến năm 1834 thì lan tới vùng duyên hải Đại Tây Dương của Bắc Mỹ.
- Vụ dịch thứ ba (1852-1860) chủ yếu xảy ra ở Nga với hơn 1 triệu người chết.
- Vụ dịch thứ tư (1863-1875) chủ yếu lan tràn ở châu Âu và châu Phi.
- Vụ dịch thứ sáu (1899-1923) ít ảnh hưởng đến châu Âu do những tiến bộ trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng, nhưng Nga lại bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
- Vụ dịch thứ bảy bắt đầu ở Indonesia năm 1961, được gọi là dịch El Tor theo tên của chủng vi khuẩn, lan tới Bangladesh năm 1963, Ấn Độ năm 1964 và Liên Xô năm 1966.

* Dịch cúm Tây Ban Nha (1918-1919) bắt đầu vào tháng 8/1918 ở ba địa điểm cách xa nhau: Brest (Boston), Massachusetts và Freetown. Sau đó chủng cúm bất thường và nguy hiểm này đã lan ra khắp thế giới. Trong vòng 6 tháng dịch bệnh đã giết chết 25 triệu người; ước tính số người chết vì bệnh trên toàn thế giới gấp đôi con số này. Ấn Độ có 17 triệu người chết, Mỹ 5 triệu người và Anh là 200 000 người. Bệnh biến mất dần trong vòng 18 tháng và người ta vẫn chưa xác định được chủng cúm thực sự đã gây ra vụ dịch này, mặc dù một số nỗ lực gần đây nhằm tái tạo lại gen của virus đã đạt được thành công.

* Dịch cúm Châu Á (1957-1958). Virus H2N2 đã cướp đi tính mạng của khoảng 70 000 người ở Mỹ. Được xác định đầu tiên ở Trung Quốc vào cuối tháng 2/1957 và đến tháng 6/1957 thì cúm Châu Á lan tới Mỹ.

* Dịch cúm Hồng Công (1968-1969). Virus H3N2 gây ra khoảng 34 000 ca tử vong ở Mỹ. Virus này được phát hiện lần đầu tiên ở Hồng Kông vào đầu năm 1968 và lan tới Mỹ vào cuối năm đó. Virus cúm A (H3N2) này hiện vẫn đang lưu hành.

* Dịch SARS 2003. Coronavirus SARS bắt nguồn từ Trung Quốc Đại lục lan sang Hồng Công và sau đó chủ yếu lây lan ở Đài Loan , Singapore và Toronto (Canada) và nhiều nước khác. Việt Nam cũng có 5 người chết trong vụ dịch này.

Một bệnh dịch hay gặp trong thời chiến là thương hàn. Xuất hiện trong Cuộc Thập tự chinh, bệnh thương hàn tác động đến châu Âu lần đầu tiên vào năm 1489 ở Tây Ban Nha. Trong cuộc chiến giữa người Thiên chúa giáo Tây Ban Nha với người Hồi giáo ở Granada, quân Tây Ban Nha mất 3000 người vì chiến trận và 20 000 người vì bệnh thương hàn. Năm 1542 quân Pháp mất 18 000 binh sĩ ở Italy và mất thế thượng phong vào tay người Tây Ban Nha. Năm 1542, 30 000 người chết do thương hàn trong chiến tranh với đế chế Ottomans ở Balkans. Bệnh cũng đóng vai trò chính trong sự thất bại của đội quân Napoleon ở Nga năm 1811. Bệnh thương hàn đã giết chết vô số tù nhân ở các trại tập trung của Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ II.

Cuộc chạm trán giữa các nhà thám hiểm người Âu với dân cư ở những nơi khác trên thế giới thường gây ra những vụ dịch địa phương đặc biệt nguy hiểm. Theo chân đội quân viễn chinh của châu Âu, dịch bệnh đã giết chết toàn bộ thổ dân (Guanches) ở vùng quần đảo Canary vào thế kỷ 16. Một nửa số cư dân bản địa của Hispaniola năm 1518 bị chết vì đậu mùa. Bệnh đậu mùa cũng tàn phá Mexico vào những năm 1520, giết chết 150 000 người riêng ở Tenochtitlán, và tàn phá Peru những năm 1530. Bệnh sởi đã giết thêm 2 triệu thổ dân Mexico nữa vào những năm 1600. Muộn hơn, vào những năm 1848-1849, chừng 40 000 trong số 150 000 thổ dân Hawaii bị chết do sởi, ho gà và cúm.

Còn có vô số căn bệnh chưa được biết rõ khác cực kỳ nguy hiểm nhưng hiện đã biến mất, do đó không thể xác định được căn nguyên. Ví dụ như một vụ dịch đã nói đến ở trên xảy ra năm 430 tr.CN ở Hy Lạp và vụ dịch có tên English Sweat hồi thế kỷ 16 ở Anh, khiến người bệnh gục ngã ngay trong chốc lát và còn đáng sợ hơn cả dịch hạch.

Mối lo ngại về những đại dịch có thể xảy ra trong tương lai:

Những bệnh có thể đạt tới tầm mức đại dịch bao gồm bệnh sốt Lassa, bệnh sốt Thung lũng Rift, virus Marburg, virus Ebola và sốt xuất huyết Bolivia. Tuy nhiên, từ năm 2002, sự xuất hiện của những bệnh này ở người đã cho thấy chúng có độc tính cao, nhưng có xu hướng chỉ “bùng phát” ở một số vùng nhất định hoặc giả tác động của chúng trên người hiện đã được hạn chế.

HIV – virus gây bệnh AIDS – có thể xem là một đại dịch toàn cầu nhưng hiện nó chỉ lây lan mạnh nhất ở miền Nam và miền Đông châu Phi. Ở các nước khác bệnh đã được giới hạn trong một tỷ lệ nhỏ dân cư và hiện chỉ lây lan chậm ở những nước này. Nếu có một đại dịch thực sự thì rất có thể nó sẽ giống như HIV, nghĩa là một bệnh luôn tiến hóa.

Các vi khuẩn kháng kháng sinh cũng làm sống lại những căn bệnh đã từng bị đánh bại. Năm 2003, người ta đã lo ngại rằng SARS, một dạng viêm phổi mới rất dễ lây, có thể trở thành đại dịch.

Lịch sử cũng đã ghi nhận rằng cứ 20 đến 40 năm một lần lại có những đại dịch cúm với mức độ nặng khác nhau. Tháng 2/2004, virus cúm gà được phát hiện trên lợn ở Việt Nam, làm tăng mối lo ngại về sự xuất hiện của những chủng biến thể mới. Các chuyên gia lo sợ rằng virus cúm gà đang có sự trao đổi kháng nguyên với virus cúm người, tạo ra một thứ týp mới vừa dễ lây vừa có độc tính cao ở người. Một thứ týp như vậy có thể gây đại dịch cúm trên toàn cầu, giống như dịch cúm Tây Ban Nha, hay như dịch cúm châu Á hoặc cúm Hông Công là những vụ dịch có tỷ lệ tử vong thấp hơn.

Tháng 11/2004 Giám đốc Khu vực Tây Thái Bình Dương của WHO cho biết một đại dịch cúm là không thể tránh khỏi và kêu gọi cần có phương án khẩn cấp để đối phó với virus. Tháng 5/2005, các nhà khoa học khẩn cấp kêu gọi các nước chuẩn bị đối phó với một đại dịch cúm toàn cầu có thể quật ngã khoảng 20% dân số thế giới.

Tháng 10/2005, đã phát hiện được cúm gia cầm (chủng H5N1) ở Thổ Nhĩ Kỳ. Cao ủy Y tế EU Markos Kyprianou nói: “Hiện nay chúng tôi đã nhận được sự khẳng định rằng virus tìm thấy ở Thổ Nhĩ Kỳ là virus cúm gia cầm H5N1. Có mối liên quan trực tiếp với virus tìm thấy ở Nga, Mông Cổ và Trung Quốc.” Chỉ một thời gian ngắn sau đó các trường hợp cúm gia cầm cũng được xác định ở biên giới Rumani, và Hy Lạp. Những trường hợp nghi có virus cũng được phát hiện ở Croatia, Bulgari và ở Anh. Tuy nhiên, tính đến cuối tháng 10/2005, mới chỉ có 67 người bị chết do virus H5N1, không giống như những đại dịch cúm đã từng xảy ra trong lịch sử.

(Theo cimsi)

Thứ Sáu, tháng 11 25, 2005

Microsoft Windows tròn 20 tuổi


Ảnh trên là giao diện màn hình Windows 1.01 khi khởi động.
Nhiều người sử dụng PC tính tuổi Windows bắt đầu từ năm 1990 khi Microsoft phát hành phiên bản hệ điều hành 3.0. Tuy nhiên, tập đoàn của Bill Gates đã đề cập đến phần mềm này từ 7 năm trước đó và ra mắt chính thức vào tháng 11/1985.

Các mốc quan trọng của Microsoft:
1975: Thành lập công ty.
1981: Ships MS-DOS
1983: Announced Windows
1985: Shipped Windows 1.0
1992: Released Windows 3.1
1994: Shipped Windows NT
1995: Released Windows 95
2000: Shipped Windows 2000.
2001: Shipped Windows XP
2003: Introduced Longhorn
2006: Ship Windows Vista

Xem thêm bài viết của VNexpress

Thứ Năm, tháng 11 24, 2005

Chuyện nhậm chức của các tổng thống Mỹ


Nước Mỹ đã trải qua 43 đời tổng thống với 55 lễ nhậm chức. Trong lễ nhậm chức Tổng thống Mỹ đầu tiên (30/4/1789), Tổng thống G.Washington (nhiệm kỳ 1789-1797) đã đề ra nhiều tiền lệ mà các đời tổng thống sau này phải thực hiện theo như đọc câu "Cầu Chúa giúp con" vào cuối buổi lễ tuyên thệ và sau đó hôn lên cuốn kinh thánh.
Trong lễ tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ 2 (4/3/1793), Tổng thống Washington đọc bài diễn văn chỉ vỏn vẹn 135 từ và đến nay vẫn giữ kỷ lục là vị tổng thống có bài diễn văn ngắn nhất.
Đến năm 1801, Tổng thống T.Jefferson (1801-1809) là nhà lãnh đạo Mỹ đầu tiên và có lẽ là duy nhất tản bộ đến nơi diễn ra lễ nhậm chức. Ông cũng là tổng thống đầu tiên nhậm chức tại tòa nhà Quốc hội ở Washington D.C. Bài phát biểu trong lễ nhậm chức của Jefferson đã trở thành bài diễn văn đầu tiên của Tổng thống Mỹ được một tờ báo đăng tải nguyên văn ngay vào buổi sáng diễn ra lễ nhậm chức. Cũng lần đầu tiên, tại lễ nhậm chức của ông, ban nhạc Marine tham gia biểu diễn, từ đó tạo tiền lệ có ban nhạc tham dự lễ nhậm chức của các tổng thống Mỹ.
Đến đời Tổng thống Martin Van Buren (1837-1841), lần đầu tiên tổng thống mãn nhiệm và tân tổng thống (A.Jackson và Van Buren) đi cùng trên một chiếc xe ngựa tới tòa nhà Quốc hội để làm lễ nhậm chức.
Còn William H.Harrison (1841) đã trở thành vị tổng thống đầu tiên đến Washington bằng tàu lửa và đọc bài diễn văn dài nhất tính tới thời điểm này (8.445 từ).
Đến lễ nhậm chức của Tổng thống J.Buchanan (1857-1861), đây được xem là buổi lễ khởi xướng phong trào chụp ảnh trong lễ nhậm chức và mở đầu thời kỳ các tổng thống "vung tay quá trán" cho lễ nhậm chức của mình.
Riêng tại lễ nhậm chức nhiệm kỳ 2 của Tổng thống A.Lincoln vào năm 1865, lần đầu tiên người Mỹ gốc Phi được tham dự lễ duyệt binh.
Edith Galt Wilson - phu nhân của Tổng thống W.Wilson (1913-1921) vinh hạnh là vị đệ nhất phu nhân đầu tiên ngồi cùng chồng trong chiếc xe ngựa đến tham dự lễ nhậm chức tổng thống (1917). Đó là lần đầu tiên phụ nữ được phép hiện diện trong lễ duyệt binh.
Trong khi Tổng thống Warren G.Harding (1921-1923) là vị tổng thống đầu tiên dùng loa phát thanh và ngồi xe ô tô trong lễ nhậm chức vào năm 1921 thì lễ nhậm chức nhiệm kỳ 2 của Tổng thống Harry S.Truman (1945-1953) lần đầu tiên được đưa lên đài truyền hình quốc gia vào năm 1949. Trong khi đó, vị tổng thống đầu tiên tăng cường các biện pháp an ninh nghiêm ngặt trong lễ nhậm chức là Lyndon B.Johnson (1963-1969). Ông đã dùng chiếc xe Limousine chống đạn đến dự lễ nhậm chức. Lễ tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ 2 của Tổng thống Clinton (1993-2001) cũng gây một dấu ấn quan trọng trong lịch sử nước Mỹ khi lần đầu tiên buổi lễ được phát trực tiếp trên Internet vào năm 1997.

Theo Báo Sàigòn

Thứ Hai, tháng 11 21, 2005

Thứ Tư, tháng 11 16, 2005

Những điều chưa biết về Trái Đất


Loài thực vật nào trên trái đất đã sống đến vài ngàn năm tuổi? Khu vực hạn hán nhất trên thế giới là ở đâu, hạn hán đến mức độ nào? Cho đến nay con người đã phát hiện ra bao nhiêu vàng khắp thế giới? Và còn nhiều điều khám phá thú vị khác nữa...

1. Nhiệt độ trong lòng Trái đất là bao nhiêu?

Cứ sâu thêm 1km thì nhiệt độ trái đất lại tăng thêm 36 độ Fahrenheit (tức là 20 độ C). Người ta ước tính điểm gần tâm Trái đất nhất độ nóng ít nhất là 7000 độ Fahrenheit (3,870 độ C).

2. Sao Thổ là hành tinh duy nhất có vành đai bao quanh?

Chính xác là vành đai bao quanh Sao Thổ nhìn thấy rõ nhất. Sao Mộc, sao Thiên Vương và sao Hải Vương cũng có vòng đai bao quanh nhưng rất mờ và khó nhận biết. Thậm chí Trái đất có thời kì cũng có vành đai bao quanh – thực chất là những thiên thạch sượt qua trong không gian.

Sao Thổ không phải là hành tinh duy nhất có vành đai bao quanh

3. Mỗi ngày trung bình thế giới sử dụng bao nhiêu nước?

Khoảng 400 tỷ gallon (tương đương 1816 tỷ lít).

4. Loài thực vật nào ở Bắc Phi có thể sống đến vài nghìn năm?

Đó là loài cây bụi Creosote, sống ở sa mạc Mojave, Sonoran, và sa mạc Chihuahuan vùng Bắc Phi. Theo phân tích các-bon phóng xạ thì loài thực vật này đã có mặt trên trái đất từ lúc chúa Jesu ra đời. Một số cây đã có trên 1000 năm tuổi.

5. Khu vực nào hạn hán nhất trên trái đất?

Đó là vùng Arica ở nước Chile. Mỗi năm thành phố này chỉ nhận được 0,76 mm nước mưa. Với lượng mưa ít ỏi đó, tính ra phải mất một thế kỉ thì mới đủ nước rót đầy một tách cà phê.

Mùa màng ở vùng Arica, Chile - khu vực hạn hán nhất trên trái đất

6. Hồ nào lớn nhất trên thế giới?

Xét về kích thước và khối lượng nước thì đó là hồ Caspian, nằm giữa đông nam châu Âu và Tây Á.

7. Điểm khô nào sâu nhất trên thế giới?

Đó là bờ biển Chết ở Trung Đông, nằm dưới mặt nước biển khoảng 400 m. Đứng thứ 2 là địa điểm mang tên “Vùng nước xấu” thuộc Thung Lũng Chết bang California, cách mặt nước biển 86m.

“Vùng nước xấu” ở Thung Lũng Chết, điểm khô đứng thứ 2 về độ sâu so với mặt nước biển, sau bờ biển Chết

8. Trên bề mặt trái đất diện tích lục địa là bao nhiêu?

Diện tích mặt đất khoảng 510,1 triệu km vuông, còn lại là sông hồ, biển và đại dương.

9. Kể tên 3 quốc gia có nhiều núi lửa hoạt động nhất trong lịch sử?

Đó là Indonesia, Nhật Bản và Mỹ, theo thứ tự giảm dần.

Indonesia là quốc gia nhiều núi lửa nhất trên thế giới

10. Cho đến nay con người đã phát hiện ra bao nhiêu vàng trên trái đất?

Hơn 193,000 m khối (tương đương 231,625 tấn). Nếu gom tất cả lại tạo thành hình khối, thì số vàng đó sẽ giống như tòa nhà cao 7 tầng.

Theo Dân trí

Thứ Ba, tháng 11 15, 2005

Hà Nội thu gom chim cảnh


Theo quyết định của UBND TP Hà Nội, chiều 15-11 tại tất cả chợ đầu mối như chợ Long Biên, chợ Cầu Giấy, các điểm giết mổ đã được xóa bỏ. Những điểm buôn bán nhỏ cũng không còn cảnh tự do bày bán các loại thịt gia cầm đã được giết mổ sẵn. Tuy nhiên, tại những cửa hàng bán đồ khô vẫn còn cảnh bày bán các loại trứng gia cầm nhưng hoàn toàn vắng khách.

Trong khi lệnh cấm được thực hiện nghiêm tại các chợ thì tại những tuyến phố bày bán các loại chim cảnh vẫn chưa được thực hiện triệt để. Nhiều gia đình đã đối phó với lệnh cấm bằng cách di chuyển chim cảnh về các huyện ngoại thành để gửi những người thân quen.

TP.HCM: giết mổ và tiêu hủy 80% lượng gia cầm

* Ông Nguyễn Phước Thảo - giám đốc Sở NN&PTNT TP.HCM - cho biết đến 15-11 thì lượng gia cầm của TP có trên 700.000 con, hiện đã giết mổ và tiêu hủy trên 80%.

Theo ông Thảo, vấn đề tiêu thụ và tiêu hủy gia cầm còn vướng ở hai huyện Bình Chánh và Củ Chi (gần 80.000 con), số gia cầm này chưa đạt trọng lượng 1kg/con nên chưa thể bán thịt. Riêng chính sách hỗ trợ đàn gia cầm trọng lượng nhỏ này thì chưa có văn bản qui định cụ thể.

X.LONG - Y.TRINH

Thứ Hai, tháng 11 14, 2005

Các thiên thể của Hệ Mặt Trời



Hệ Mặt Trời (cũng được gọi là Thái Dương Hệ) là một hệ thống hành tinh có Mặt Trời ở trung tâm với 9 hành tinh chính quay xung quanh, 7 trong số các hành tinh này có vệ tinh riêng của chúng.


Theo Hiệp hội Thiên văn Quốc Tế (International Astronomical Union), 9 hành tinh sau đây được chấp nhận như hành tinh chính thức của Thái Dương Hệ:

* Thủy Tinh
* Kim Tinh
* Địa Cầu - cùng với vệ tinh của nó là Mặt Trăng
* Hỏa Tinh - cùng với 2 vệ tinh của nó là Deimos và Phobos
* Mộc Tinh - cùng với 63 vệ tinh của nó
* Thổ Tinh - cùng với 34 vệ tinh của nó
* Thiên Vương Tinh - cùng với 27 vệ tinh của nó
* Hải Vương Tinh - cùng với 13 vệ tinh của nó, và
* Diêm Vương Tinh - cùng với vệ tinh của nó là Charon

Nhiều nhà thiên văn học đã đề nghị đưa Diêm Vương Tinh vào cùng loại với các thiên thể thuộc vòng đai Kuiper, thay vì như một hành tinh, vì hành tinh này quá nhỏ và có một quỹ đạo khác thường.

HIỂU BIẾT CƠ BẢN VỀ CÚM GIA CẦM


Bệnh cúm là gì?

Cúm là một bệnh truyền nhiễm gây dịch viêm đường hô hấp cấp tính do virút. Triệu chứng chính là sốt, đau đầu, đau cơ, mệt mỏi, sổ mũi, đau họng, ho, có thể viêm phổi. Bệnh thường kéo dài 2-5 ngày. Tác nhân gây bệnh là 3 typ virút cúm A-B-C. Gây bệnh phổ biến trên người với tỉ lệ tử vong cao là virút cúm typ A và B . Týp C chỉ gây bệnh nhẹ, tản phát.

Tại sao gọi là cúm gà?

Do sự thích nghi loài, một số phân typ virút cúm A có thể gây bệnh cho gia cầm như các phân typ H5N1, H7N7.... Đặc biệt virút cúm A H5N1 rất mãnh độc với loài gà. Từ đó y học có tên gọi cúm gà hay cúm gia cầm có cùng căn nguyên typ virút cúm A với cúm người, nhưng khác về phân typ.

Virút cúm A H5N1 gây bệnh cúm gà có nguy hiểm cho người?

Phân typ virút cúm A H5N1 có ổ chứa thiên nhiên là các loài chim hoang dã và một số loài thủy cầm, gia cầm như gà. Với cơ thể người, virút cúm A H5N1 hoàn toàn xa lạ. Người bình thường không có hàng rào miễn dịch để chống lại nó, khi có điều kiện xâm nhập vào cơ thể người do tiếp xúc gần như ăn thịt, trứng gia cầm mang virút cúm A H5N1 thì virút này có khả năng gây bệnh rất nặng cho người, tỉ lệ tử vong cao. Người bệnh sốt cao liên tục, có thể rét run, ho khan (ít khi có viêm long đường hô hấp), đau họng, đau ngực, đau cơ, tiêu chảy, khó thở, tím tái, nặng hơn có thể có hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển nhanh, nhịp tim nhanh, rối loạn ý thức và suy đa tạng.

Ai dễ bị cúm?

Người trên 65 tuổi, trẻ em từ 6-23 tháng tuổivà cả người lớn mắc những bệnh mạn tính như tim, phổi, phụ nữ mang thai trong mùa đông, trẻ em từ 6-18 tháng tuổi đang uống aspirin kéo dài, những bác sĩ-y tá chuyên chăm sóc người bệnh cúm. Đối tượng bị nhiễm virút cúm A H5N1 hiện đã mở rộng .

Virút cúm A H5N1 biến đổi thế nào?

Virus cúm A H5N1 được tìm thấy ở Việt Nam đã có biến đổi gene khá khác biệt so với loại virus được tìm thấy hồi đầu năm 2004. Ngoài ra dấu hiệu bất thường của nó là xuất hiện 3 dạng nhiễm ẩn virút cúm A H5N1(bị nhiễm, nhưng không phát bệnh). Quá trình biến đổi của virút cúm A H5N1 diễn ra theo nhiều bước nhỏ.

Tránh virút cúm ra sao?

Tiêm phòng vắcxin cúm. Nếu không tiêm thì biện pháp phòng ngừa hiệu quả nhất là rửa tay thường xuyên, tránh sờ lên mắt, mũi, hoặc miệng. Che miệng và mũi khi ho hoặc hắt hơi. Không cho trẻ đến trường khi bị cúm. Uống vitamin C (500-2000 mg/ngày). Dùng thuốc xịt mũi flumist có tác dụng chống virút cúm lây qua đường hô hấp. Với người trên 65 tuổi, mắc các bệnh mạn tính, bệnh phổi thì nên tiêm vắcxin ngừa viêm phổi.

BS Cao Văn Viên

Xem thêm - Bộ Y tế

YÊU!



Tác giả: Vĩnh Hảo

Ngàn hoa không bằng môi em thơm
Ngàn lời không bằng nụ hôn thầm
Ngàn thư không bằng yêu từng phút
Từng phút mơ về em trăm năm...

Thứ Bảy, tháng 11 12, 2005

Hoa ... nói điều gì?


Nếu như thống kê về các loài hoa trên thế giới, dễ có đến hàng triệu loài khác nhau. Mỗi loài có một màu sắc, hương vị, ý nghĩa... Vì lẽ đó, hoa còn được mượn để nói thay lời. Ngôn ngữ của loài hoa thật là uyển chuyển, tế nhị...

Hoa cẩm chướng: Tình bạn.
Hoa cúc trắng: Ngây thơ và duyên dáng.
Hoa cúc tím (thạch thảo): Nỗi lưu luyến khi chia tay.
Hoa cúc vàng: Lòng kính yêu quý mến, nỗi hân hoan.
Hoa đinh tử - màu lửa: Càng ngày anh càng yêu em.
Hoa đinh tử - đỏ sẫm: Lòng anh không bao giờ thay đổi.
Hoa đồng thảo: Tính khiêm nhường.
Hoa đồng tiền: Niềm tin của em đã đạt được.
Hoa Forget Me Not: Xin đừng quên em.
Hoa huệ: Sự trong sạch và thanh cao.
Hoa hướng dương: Niềm tin và hy vọng.
Hoa hải đường: Nên giữ tình bạn thân mật thì hơn.
Hoa hồng: Thể hiện tình yêu bất diệt.
Hoa hồng BB: Tình yêu ban đầu.
Hoa hồng bạch: Em ngây thơ duyên dáng và dịu dàng.
Hoa hồng nhung: Tình yêu say đắm và nồng nhiệt.
Hoa hồng vàng: Một tình yêu kiêu sa và rực rỡ.
Hoa hồng đỏ: Một tình yêu mãnh liệt đậm đà.
Hoa hồng phấn: Sự trìu mến của em theo bước chân anh.
Hoa hồng tỉ muội: Khi được tặng, nếu là bạn trai thì cần hiểu rằng: Bạn là một đứa em ngoan.
Hoa inmortel: Nỗi đau khổ khó nguôi.
Hoa kim ngân: Lòng trung thành.
Hoa lan: Bao giờ em cũng thành thật với anh.
Hoa lay ơn: Những cuộc họp vui vẻ và lời hẹn cho ngày mai.
Hoa lưu ly: Anh muốn hoàn toàn là của em.
Hoa lài: Tình bạn ngát hương.
Hoa lý: Tình yêu thanh cao và trong sạch.
Hoa mai, hoa đào: Một mùa xuân tràn trề ứơc mơ và hy vọng.
Hoa mimosa: Tình yêu mới chớm nở.
Hoa mào gà: Ðổ đậm - Không có điều gì làm anh chán cả.
Hoa ngân hương vàng: Tôi đã có chồng hãy tha thứ.
Hoa phù dung: Hồng nhan bạc phận.
Hoa quỳnh: Sự thanh khiết.
Hoa sen: Lòng độ lượng và từ bi bác ái.
Hoa sen hồng: Hân hoan, tươi vui.
Hoa sen trắng: Cung kính, tôn nghiêm.
Hoa sơn trà: Anh nên dè dặt một chút.
Hoa thuỷ tiên: Kiêu căng và ích kỷ.
Hoa thuỷ tiên: Vương giả, thanh cao, kiêu hãnh.
Hoa thược dược: Sự dịu dàng và nét thầm kín.
Hoa trà mi: Kiêu hãnh, coi thường tình yêu.
Hoa trà: Mong manh sương khói.
Hoa tường vi: Anh đã bắt đầu yêu em.
Hoa tường vi hồng: Anh yêu em mãi mãi.
Hoa tường vi vàng: Anh sung sướng được yêu em.
Hoa tử vi: Sự e ấp kín đáo.

Ý nghĩa các màu hoa
Màu trắng: Ðơn sơ, thanh khiết, trung thực
Màu đen: U buồn, tang chế
Màu tím: Nhớ nhung, lãng mạn, trang trọng
Màu vàng: Rực rỡ, sung túc
Màu xanh da trời: Yêu đời, bao dung, êm dịu
Màu xanh lý: Dịu dàng, nhã nhặn
Màu xanh lá cây: Tươi mát, hy vọng, sinh động
Màu hồng: Nồng nàn, thơ ngây
Màu đỏ: Nồng cháy, sôi nổi
Màu cam: Tươi vui, rạng rỡ

Tùy theo các dịp vui, ngày lễ bạn chọn hoa như:
Mừng tân gia, nên chọn màu hoa tươi vui rực rỡ,
Mừng sinh nhật nên chọn các loại hoa có màu tươi ấm, thanh khiết.
Ngày Tình Yêu (Valentine's Day) nên chọn những bông hồng đỏ thắm hoặc màu hồng nồng nàn.
Ngày thầy cô giáo có thể chọn hoa hồng màu đỏ, trắng, vàng hoặc các loại lan, cúc trắng, cúc vàng v.v...
Dự tang lễ nên chọn hoa huệ ta, huệ tây, vạn thọ, cúc tím....
Ngày trọng đại nhất đời người có thể chọn những loại hoa mà mình thích, thông thường các cô dâu hay chọn hoa hồng trắng bó chung với hoa hồng đỏ, hoa hồng BB hoặc hồng nhung, hoa cúc trắng...

(Xem thêm)

Chúng ta mất bao nhiêu năm để ăn và ngủ?


Con người tiêu tốn bao nhiêu thời gian vào những công việc hằng ngày như ăn, ngủ, học và... hôn? Dưới đây là những con số trung bình của một người sống đến 78 tuổi, do các nhà khoa học Đức đưa ra.

Nhiều người cho rằng trong suốt cuộc đời, việc nhà sẽ chiếm nhiều thời gian nhất. Nhưng thực tế, bạn làm việc nhà chỉ trong khoảng 4 năm. Giặt giũ, là ủi mất 9 tháng, còn thời gian cho việc lau dọn nhà mất đứt 16 tháng của cuộc đời. Trong khi đó, bạn sẽ mất 2,2 năm đứng nấu nướng trong bếp.

Ăn uống, cho dù theo cách vội vã hay nhàn nhã ung dung, cũng sẽ chiếm mất 5 năm trong cuộc đời - con số này sẽ cao gấp nhiều lần với người ưa nhậu. Trung bình, mỗi chúng ta sẽ mất hơn 6 tháng để xem những chương trình tivi yêu thích. Bình quân mỗi người có khoảng 4 tháng chơi game. Tất nhiên con số này cũng không thể áp dụng với những người nghiền game. Con số này sẽ cao hơn nhiều đối với lớp trẻ sau này.

Có những việc tưởng như chiếm một khoảng thời gian rất dài trong cuộc đời song thực ra lại rất ngắn. Chẳng hạn, ở công sở, chúng ta chỉ mất khoảng 7 năm làm việc thực sự. Việc học hành từ lúc chập chững đến khi trưởng thành tuy nhìn lại có vẻ căng thẳng, vất vả, song theo các nhà khoa học thì mỗi cá nhân chỉ có 1 năm 10 tháng ngồi trong lớp học. Ngay cả những cảm xúc của con người cũng hết sức ngắn ngủi: khoảng 16 giờ trong đời người được hưởng những khoái cảm tình dục. Tuy nhiên, chúng ta lại dành khoảng 2 tuần cho việc... hôn.

Ngủ là một hoạt động chiếm nhiều thời gian nhất. Chúng ta ngủ khoảng 24 năm 4 tháng trong cuộc đời. Có thể mọi người sẽ ngạc nhiên khi bình quân cả một đời bạn ngồi trong toilet mất khoảng 6 tháng và chỉ 4 tháng ngồi làm việc bên máy vi tính.

(Theo VnExpress)